NGHĨ VỀ GIÁO ÁN
(Dành cho giáo viên)
1. Giáo án là sự hình dung kịch bản lên lớp của mỗi giáo viên (GV) với 1 đối tượng học sinh (HS) cụ thể và 1 nội dung cụ thể trong 1 không gian và thời gian cụ thể… Vì thế nó là sản phẩm cá nhân. Không có và không nên yêu cầu có một giáo án mẫu, chung cho tất cả mọi GV; chỉ cần thống nhất một số yêu cầu cốt lõi cần có, còn trình bày giáo án như thế nào tùy mỗi người.
Giáo án dạy học theo yêu cầu phát triển năng lực (gọi tắt là giáo án NL) cần khác với giáo án dạy học chạy theo nội dung (gọi tắt là: giáo án ND).
Giáo án ND là giáo án nêu lên các nội dung mà GV cần truyền thụ cho HS; trả lời câu hỏi: bài học cần dạy cái gì?
Giáo án NL là giáo án nêu lên các hoạt động (HĐ) mà GV tổ chức cho HS thực hiện để tìm ra nội dung cần học, qua đó mà biết cách học; trả lời câu hỏi: bài học cần dạy bằng cách nào, thông các HĐ nào?
Giáo án ND tập trung vào mục tiêu trang bị những kiến thức, hiểu biết của GV về 1 vấn đề nào đó cho HS. HS tiếp thu những kiến thức mà GV cung cấp một chiều và mang tính áp đặt (cũng có phát vấn và yêu cầu HS trao đổi…nhưng cuối cùng ý kiến của GV vẫn là quyết định, áp đặt) do đó hạn chế về cách học và tự học.
Giáo án NL tập trung vào mục tiêu hình thành và phát triển năng lực, HS thực hiện các HĐ để tự tìm ra kiến thức, tự hoàn thiện những hiểu biết của chính mình, phù hợp với mình; qua đó biết cách học và biết tự học.
Giáo án ND giúp HS biết nhiều nhưng vận dụng được ít, thực hiện rất lúng túng trong tình huống tương tự, nhất là ngữ cảnh và vật liệu mới. Giáo án NL giúp HS biết có thể không nhiều nhưng vận dụng được, thực hiện được trong tình huống tương tự với ngữ cảnh và vật liệu mới.
2. Không có giáo án chung cho mọi GV, nhưng mỗi giáo án phải đáp ứng một số yêu cầu cứng (bắt buộc), chẳng hạn bài soạn cần xác định được:
a) Mục tiêu (MT) phát triển NL thông qua nội dung cụ thể của bài học. NL phải qua nhiều bài học mới hình thành được, nhưng mỗi bài học phải hướng tới các biểu hiện cụ thể của NL ấy thông qua và gắn với ND bài học cụ thể mỗi bài.
b) Tiến trình giờ học phải tổ chức thông qua các HĐ và bằng các HĐ học tập. HS phải tham gia tìm kiếm, phát hiện, nêu vấn đề, trao đổi, phản bác, chứng minh, phân tích… rút ra nhận xét, kết luận của mình. GV là người nêu nhiệm vụ, hướng dẫn cách thức HĐ và gợi mở, nêu ý kiến của mình khi cần thiết. GV không làm thay HS; hạn chế diễn giảng, tránh áp đặt ý kiến cá nhân, tôn trọng ý kiến của HS,…
Các HĐ học tập phải bám sát và tập trung thực hiện MT đã đề ra, tránh tình trạng MT chỉ nêu cho có mà không thấy HĐ nhằm thực hiện MT đã nêu. Mỗi MT có thể tổ chức 1 hoặc nhiều HĐ. Nhưng nhìn chung không nên tổ chức quá nhiều HĐ trong một giờ học. Muốn thế cần xác định mỗi bài học theo nguyên tắc vừa có diện (bề rộng), vừa có điểm (bề sâu), tập trung vào điểm. Ví dụ với môn Ngữ văn, khi dạy bài đọc hiểu 1 tác phẩm văn học, diện chính là giúp HS nắm được bao quát chung để thấy tính chỉnh thể của tác phẩm, còn trọng tâm cần hướng vào một vài vấn đề sâu sắc và lý thú của tác phẩm. Không nên yêu cầu HS khai thác tràn lan tất cả mọi chi tiết, mọi vấn đề, mọi yếu tố hình thức của văn bản. Việc xác định trọng tâm ấy phụ thuộc vào trình độ của GV dựa trên mục tiêu, yêu cầu của bài học và đối tượng HS. Một văn bản thường có rất nhiều vấn đề cần khai thác, nhưng với từng đối tượng người học, GV chỉ nên xác định một vài vấn đề thật thiết yếu và phù hợp; còn lại có thể gợi mở để HS tự tìm hiểu. Vấn đề trọng tâm của mỗi bài học cần bám sát yêu cầu đọc hiểu của chương trình và nên trao đổi trong tổ nhóm để thống nhất chung. Ví dụ ít nhất giờ đọc hiểu phải chú đến các HĐ trọng tâm như: i) Hướng dẫn HS tìm hiểu thông điệp nội dung, ý nghĩa thông qua các hình thức của văn bản; ii) Hướng dẫn HS liên hệ, kết nối, so sánh với bối cảnh văn hóa xã hội; đặc biệt với những trải nghiệm của bản thân để gắn kết vấn đề đặt ra trong tác phẩm với người học… HĐ thứ nhất hướng tới yêu cầu hiểu khách thể (văn bản), HĐ thứ hai hướng tới yêu cầu hiểu chủ thể (người đọc). Đọc hiểu không chỉ là hiểu văn bản mà còn để hiểu chính mình.
NT (sưu tầm)